- Công suất: 1 đến 50 tấn/giờ.
- Áp suất: 8 - 25 bar.
- Nhiệt độ 165 - 250 độ C.
- Nước cấp: 80 độ C.
- Hiệu suất lò hơi: 85% (+-2).
- Độ ồn: <85 dB( Cách nhà lò 1 mét).
- Mức tiêu hao nhiên liệu: 185 – 195 kg trấu /1 tấn hơi và 175 – 185 than cám Indo.
Lò tầng sôi hay còn gọi là nồi hơi tầng sôi là loại lò hơi công nghiệp sử dụng buồng đốt kiểu tầng sôi,với đặc điểm nhiên liệu cháy ở dạng lớp hỗn hợp chuyển động đối lưu có đặc tính thủy khí giống chất lỏng sôi. Nhiên liệu được sử dụng để đốt trong lò tầng sôi là các loại nhiên liệu thể rắn dạng hạt nhỏ (than cám, vỏ hạt điều, mùn cưa,trấu, phế phẩm nông nghiệp,phế phẩm công nghiệp,vv.
Lò hơi tầng sôi thường được sử dụng trong các ứng dụng công nghiệp như sản xuất điện, sản xuất giấy và sản xuất hóa chất. Các ưu điểm của lò hơi tầng sôi bao gồm khả năng sản xuất hơi nước ở áp suất cao và nhiệt độ cao, cũng như độ ổn định và độ tin cậy cao. Tuy nhiên, chúng cũng có nhược điểm là độ phức tạp và chi phí cao hơn so với các loại lò hơi khác. Lò hơi tầng sôi (hay lò hơi đa tầng sôi) có những ưu điểm và nhược điểm sau đây.
Nhiên liệu cấp cho lò đòi hỏi phải có kích thước đồng đều và độ lớn theo quy định nhằm đạt được điều kiện đốt cháy tối ưu, giới hạn kích thước là 0 ÷ 50 mm. Điều này khiến Nhà máy phải mua nhiên liệu dạng nhỏ đã băm nghiền sẵn hoặc phải thêm chi phí mua và sử dụng máy băm nghiền nguyên liệu.
Tiêu thụ điện năng cao cho hệ thống quạt cao áp, diện tích bề mặt ghi lớn, tổn thất nhiệt ra môi trường bên ngoài cũng khá lớn cùng với đó là hiệu suất cháy ở buồng lửa thấp hơn so với công nghệ lò hơi phun than.
Nhiên liệu được đưa vào buồng lửa bằng băng tải, vit tải. Gió cấp 1 sau khi được sấy nóng bằng bộ sấy không khí được cấp vào từ phía dưới ghi buồng đốt làm nhiệm vụ tạo lớp sôi và cấp oxy cho quá trình cháy.
Các hạt nhiên liệu được cấp vào buồng đốt và được làm tản đều khắp bề mặt buồng đốt nhờ quạt thổi liệu. Các hạt liệu được bắt cháy trong buồng đốt tầng sôi và cháy dữ dội nhất ở nửa trên của buồng đốt tầng sôi.
Nhiên liệu tiếp tục cháy và trao đổi nhiệt bức xạ ở buồng đốt bức xạ. Khi cháy các hạt nhiên liệu vỡ ra tạo thành tro xỉ, các hạt tro xỉ có trọng lượng nhẹ nên bay theo khói ra khỏi buồng lửa.
Tuy nhiên các hạt liệu có kích thước lớn hơn vẫn không cháy hết hoàn toàn, hỗn hợp này lại trải qua quá trình phân ly hạt liệu lắng lại. Và được đưa trở về buồng lửa bằng cụm hồi lưu để tiếp tục quá trình cháy cho đến khi cạn kiệt thì thôi. Khói sau khi ra khỏi buồng hồi lưu sẽ đi vào giàn ống đối lưu (hoặc giàn ống lửa), ở đây khói sẽ trao đổi nhiệt đối lưu qua vách ống với nước.
Khói thải sau khi ra khỏi giàn đối lưu vẫn có nhiệt độ khá cao 250 – 300 oC. Để tận dụng nhiệt độ khói thải này thì khói thải sẽ đi qua bộ hâm nước và bộ sấy không khí để hâm nóng nước trước khi đưa vào lò.
Và sấy không khí nóng trước khi đưa vào buồng đốt để làm tăng hiệu suất lò hơi. Sau đó khói thải sẽ đi qua cyclone lọc bụi, ở đây hạt bụi sẽ được phân ly và lắng xuống phễu thu tro.
Tuy nhiên cyclone chỉ thu được các hạt bụi lớn và mịn, các hạt bụi siêu mịn không được cyclone phân ly và sẽ bay theo dòng khói đi vào bộ lọc bụi túi vải (hoặc tháp dập bụi nước). Lúc này khói thải đã được làm sạch và theo ống khói thải ra môi trường.
Trong quá trình cấp hơi, lò phải giữ đúng chế độ đốt tức là phải đảm bảo nhiên liệu cháy hoàn toàn, nếu có nhiều khói đen thì phải cấp thêm gió, tăng sức hút; nếu không nhìn rõ khói thì phải hạn chế viêc cấp gió, giảm sức hút. Nếu khói ra có mầu xám là chế độ đốt tốt. Than cho vào lò phải rải đều trên mặt ghi và cho vào từng lượng nhỏ để duy trì việc cháy của nhiên liệu đều trên mặt ghi. Thao tác cấp nhiên liệu, cào xỉ phải nhanh chóng và sau đó đóng ngay cửa cấp nhiên liệu lại.
Chiều dầy lớp than trên mặt ghi dao động khoảng 300mm. Chiều dầy lớp than, củi, củi trấu trên mặt ghi dao động khoảng 500mm. Xỉ được cào ra bằng cửa tro, cửa bụi. Việc cào xỉ, bụi được thực hiện theo chu kỳ và thao tác cần tăng sức hút của lò bằng cách mở to lá chắn khói.
Khi áp suất trong lò gần tương đương áp suất làm việc tối đa thì chuẩn bị cấp hơi. Trước khi cấp hơi mực nước trong không nên để cao mức bình thường. Khi cấp hơi chế độ cháy phải ổn định.
Khi cấp hơi mở từ từ van hơi chính để một lượng hơi nhỏ làm nóng đường ống dẫn hơi và xả hết nước đọng trên đường ống dẫn hơi khoảng 10 ÷ 15 phút, trong thời gian quan sát hiện tượng dãn nở ống và giá đỡ ống, nếu thấy bình thường thì mở hết cỡ van hơi chính để cấp hơi đi. Việc mở van hơi phải từ từ, khi mở hết cỡ thì xoay ngược lại nửa vòng vô lăng van hơi lại.
Để tránh hiện tượng hơi có lẫn nước, nước được cấp vào lò phải từ từ, không nên cho mức nước trong lò cao quá mức bình thường theo ống thuỷ.
Trong thời gian vận hành lò phải giữ vững mực nước trong lò hơi, không nên cho lò vận hành lâu ở mức thấp nhất và mức cao nhất giới hạn. Lò hơi được cấp nước tự động do bơm cấp nước đảm đương
Tuỳ theo chế độ nước cấp ở từng đơn vị sử dụng lò mà xác định số lần xả bẩn trong một ca. Nước cấp càng cứng, độ kiềm càng cao thì số lần xả càng nhiều. Ít nhất trong một ca phải xả bẩn 2 lần, mỗi lần từ 2 ¸ 3 hồi, mỗi hồi từ 10-15 giây. Trước khi xả nên nâng cao mức nước trong lò hơi lên mức nước trung bình khoảng 25 ¸ 50mm theo ống thuỷ là vừa. Ống thuỷ phải được thông rửa ít nhất 2 lần trong một ca. Van an toàn cũng phải được kiểm tra 1 lần trong 1 ca.
Nước cấp có độ cứng toàn phần không vượt quá 0,5mgđl/lít: PH = 7 - 10
Với kinh nghiệm lâu năm chúng tôi đã có thể thiết kế và đưa ra thị trường các mẫu lò từ 1 tấn đến 30 tấn hơi/giờ. Lò hơi Hex-Boiler đã được nhiều Quý khách hàng trong nhiều lĩnh vực tin dùng với khả năng tiết kiệm nhiên liệu vượt trội, vận hành êm ái đáng tín cậy.